Agribank An Giang: Giảm lãi suất, cho vay tín chấp với doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp hoạt động tương đối tốt, có dự án, dòng tiền hiệu quả, có năng lực kinh doanh thì ngân hàng mới cho vay, kể cả với tín chấp. Ngược lại, ngân hàng khó cho vay dưới chuẩn.
Tại Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Bộ Chính trị đã đặt ra nhiệm vụ về cắt bỏ rào cản tiếp cận đất đai, tín dụng, dữ liệu, nhân lực chất lượng cao… với doanh nghiệp tư nhân. Đây cũng là vướng mắc lớn nhất của doanh nghiệp tư nhân khi tiếp cận vốn ngân hàng hiện nay.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Theo TS. Hồ Việt Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh An Giang, lâu nay nhiều ngân hàng tập trung cho vay doanh nghiệp lớn, ngại cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Bộ Chính trị đặt ra nhiệm vụ về cắt bỏ rào cản tiếp cận đất đai, tín dụng, dữ liệu, nhân lực chất lượng cao… với doanh nghiệp tư nhân. Điều này mở ra cơ hội tiếp cận vốn nhiều hơn với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Doanh nghiệp tư nhân vốn là đối tượng phục vụ được các ngân hàng thương mại nhắm đến. ThS. Nguyễn Văn Hoàng, Phó Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh An Giang (Agribank An Giang) cho biết, dư nợ tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng tính đến cuối tháng 4/2025 đạt khoảng 1.915 tỷ đồng, chiếm 10% tổng dư nợ.
“Với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngân hàng xác định là đối tượng ưu tiên cho vay với lãi suất ưu đãi, khi lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND thấp hơn các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường, hiện là 4%/năm”, ông Hoàng cho biết.
Cũng theo ông Hoàng, đóng góp của kinh tế tư nhân là rất lớn cho kinh tế địa phương nói riêng nền kinh tế đất nước nói chung. Đối với Agribank, tổng dư nợ hiện là hơn 19.255 tỷ đồng, thì có tới 65% là cho vay nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó phần lớn là cho vay các hộ kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, Agribank An Giang có gần 915 tỷ đồng dư nợ cho vay pháp nhân, trong đó 90% là doanh nghiệp tư nhân.
Mặc dù quy mô dư nợ tín dụng với khối doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng, song thực tế, 70% doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thể tiếp cận vốn ngân hàng. Trong đó, rào cản lớn nhất là tài sản đảm bảo. Các doanh nghiệp kỳ vọng, tới đây, ngành Ngân hàng sẽ có những chính sách cụ thể để triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW, từ đó khai thông dòng tín dụng với doanh nghiệp tư nhân.
Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra nhiệm vụ phải rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân. Có chính sách ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại dành cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, vay để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi và tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng.
Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị, xem xét các tài sản bảo đảm gồm cả động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và hình thức cho vay tín chấp.
Đẩy mạnh phát triển “tín dụng xanh”; Nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG).
Tinh thần của Nghị quyết 68-NQ/TW khiến nhiều doanh nghiệp hết sức phấn khởi vì đã nhắm vào những vướng mắc lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay. Đối với vấn đề tiếp cận vốn, hiện các ngân hàng chỉ ưu tiên nhận tài sản thế chấp là bất động sản, mà không muốn nhận tài sản thế chấp là máy móc thiết bị, hàng tồn kho. Điều này khiến doanh nghiệp khó khăn trong nâng hạn mức tín dụng, tiếp cận vốn kịp thời.
Nhiều doanh nghiệp cũng than phiền rằng, dù họ có “tuổi đời” nửa thế kỷ, hàng hóa xuất khẩu đi hàng chục nước trên thế giới, được bạn hàng tin tưởng, song ngân hàng vẫn không dám cho vay tín chấp.
Tuy vậy, nhìn từ góc độ ngân hàng, họ cũng có thế khó riêng. Phó giám đốc Hoàng cho hay, các ngân hàng khi cho vay phải tuân thủ quy trình chặt chẽ để đảm bảo không bị mất vốn. Một khi xảy ra nợ xấu có khả năng mất vốn, không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng, mà cán bộ tín dụng còn có nguy cơ bị xử lý hình sự.
“Chưa kể, tình trạng một doanh nghiệp có hai báo cáo tài chính - một báo cáo lãi để làm hồ sơ vay vốn ngân hàng và một báo cáo lỗ để gửi cơ quan thuế - đã trở thành phổ biến. Với tình trạng này, ngân hàng rất khó để tin tưởng cho vay thế chấp. Nếu được liên thông dữ liệu với ngành thuế, được tiếp cận báo cáo tài chính thực của doanh nghiệp, việc cho vay tín chấp không còn quá khó khăn”, Phó Giám đốc Hoàng cho biết.
Nhìn nhận về những đóng góp của ngành Ngân hàng, TS. Hồ Việt Hiệp thừa nhận, ngân hàng cũng là doanh nghiệp, kinh doanh phải có lãi, phải đảm bảo an toàn vốn. Vì vậy, để ngân hàng yên tâm cho vay, doanh nghiệp phải thật sự minh bạch và phải chứng minh cho ngân hàng thấy được tiềm năng phát triển của mình.
Thực tế tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tín dụng ở Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Vì vậy, doanh nghiệp nên mở rộng kênh tiếp cận vốn, không nên quá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
Ngoài tín dụng ngân hàng, Nghị quyết 68-NQ/TW cũng đưa ra nhiều giải pháp để đa dạng hóa nguồn vốn cho kinh tế tư nhân như hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và các quỹ đầu tư vào doanh nghiệp; sửa đổi khung pháp lý về hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
Nghị quyết cũng yêu cầu khẩn trương nâng hạng, tái cơ cấu thị trường chứng khoán, phát triển thị trường bảo hiểm, hoàn thiện quy định về trái phiếu doanh nghiệp để nâng cao chất lượng và mở rộng kênh huy động vốn ổn định, chi phí thấp cho kinh tế tư nhân; nghiên cứu xây dựng khung pháp lý về chứng khoán hóa các khoản nợ…