Quản phát hành trái phiếu thế nào để không hạn chế quyền tiếp cận vốn của doanh nghiệp?

Việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp phát hành trái phiếu là cần thiết, nhưng cơ chế cần có sự thông thoáng, cởi mở nhất định, nếu không sẽ hạn chế quyền tiếp cận vốn của doanh nghiệp và cản trở hoạt động M&A.

Các chuyên gia đánh giá, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) của Việt Nam phát triển tương đối nhanh. Tuy nhiên, sau những vụ việc “lùm xùm” trên thị trường tài chính xảy ra hồi tháng 4 vừa qua, các quan điểm về thị trường TPDN đang chuyển từ thái cực mở sang quản lý chặt chẽ. Một số chính sách mới đang làm giảm cơ hội tiếp cận vốn của doanh nghiệp, qua đó làm chậm nhịp phục hồi và phát triển và lỡ nhịp chương trình phục hồi phát triển kinh tế xã hội 2022-2023 của quốc gia.

Không thể phân biệt “đồng mua mắm, đồng mua tương” trong túi tiền doanh nghiệp

Tại Diễn đàn “Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiệu quả, bền vững”, ông Phạm Xuân Hoè, Nguyên Phó Viện trưởng viện chiến lược, Ngân hàng Nhà nước cho rằng, việc siết chặt thị trường TPDN là chưa hợp lý với nguyên tắc thị trường và nếu cứ tiếp tục như vậy, Việt Nam sẽ khó có được một thị trường trái phiếu lành mạnh, hay đạt đến mục tiêu 20% GDP như các chuyên gia đề cập.

TPDN-jpeg-5986-1652974006.jpg

Theo số liệu nghiên cứu của ADB, đến hết tháng 3 năm nay, tổng dư nợ thị trường trái phiếu đạt 3,3 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 37,4% GDP, trong đó dư nợ TPDN tương đương 14,8% GDP.

Điển hình, tại dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 153/2020/NĐ-CP có quy định hạn mức vay nợ của doanh nghiệp không quá 3 lần so với vốn chủ sở hữu, nhưng cách tiếp cận đó là chưa phù hợp.

Dẫn thông tin khuyến nghị từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), chuyên gia này cho rằng, cần phân biệt hệ số vay nợ tổng thể giữa các doanh nghiệp, bao gồm cả trái phiếu, cổ phiếu, tín dụng vay của các tổ chức khác... Ví dụ ngành thương mại được tài trợ 70%, còn 30% là vốn tự có, còn lĩnh vực công nghiệp là 50-50%.

“Như vậy, chúng ta phải phân tích theo đặc thù ngành nghề để giới hạn, chứ không nên kéo bằng như nhau”, ông Hoè nói.

Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cũng cho rằng, việc kiểm soát quá chặt chẽ dòng vốn và mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp phát hành trái phiếu là không khả thi. “Đồng tình rằng phải có sự kiểm soát mục đích sử dụng vốn, nhưng tiền đã vào trong túi doanh nghiệp thì không thể phân biệt “đồng này mua mắm, đồng này mua tương”, nên cơ chế cần có sự thông thoáng, cởi mở nhất định”, ông Hoè nhấn mạnh.

Theo ông, ở dòng đời thứ hai của dòng tiền thì không thể kiểm soát được mục đích sử dụng. “Cần có lộ trình để các doanh nghiệp phát hành trái phiếu áp dụng theo chuẩn mực kế toán quốc tế, nhà đầu tư chỉ cần nhìn vào báo cáo tài chính để biết được dòng tiền đã đi về đâu”, ông Hoè đề xuất.

Theo Chiến lược tài chính đến năm 2030, dư nợ trái phiếu cần đạt quy mô 47% GDP vào năm 2025 (trong đó, TPDN đạt 20% GDP) và 58% GDP năm 2030 (trong đó, TPDN đạt 25% GDP). 

Về quản lý dòng vốn, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI cũng nhấn mạnh, quy định “doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp khác và cho doanh nghiệp khác vay vốn” sẽ hạn chế quyền tiếp cận vốn của doanh nghiệp và cản trở hoạt động M&A. Ngoài ra, các quy định này cũng không phù hợp với nguyên tắc quản trị của tập đoàn (công ty mẹ có uy tín đảm nhận việc phát hành trái phiếu sau đó cho công ty con (công ty dự án) vay lại.

Làm gì để lành mạnh hoá thị trường?

Theo các chuyên gia, hành lang pháp lý vẫn đang bỏ ngỏ quy định trách nhiệm cụ thể với các chủ thể, khiến cho nguồn thông tin trên thị trường chưa được minh bạch, thiếu sự ràng buộc, cam kết. Đồng thời, cần sớm có quy định về định hạng tín nhiệm nhằm giúp nhà đầu tư dễ dàng xác định chất lượng doanh nghiệp, mức độ rủi ro của trái phiếu phát hành.

Ông Tuấn cho rằng, định giá tín nhiệm là một giải pháp rất quan trọng và tiềm năng, nhưng "tiếc là trong Dự thảo 5 sửa đổi Nghị định 153 lại hơi mờ nhạt, chưa đậm nét".

Theo ông Tuấn, ở đây có sự bất đối xứng thông tin, bởi có nhiều nhà đầu tư mua TPDN mà không biết tình hình tài chính nhà đầu tư như thế nào. Thường ở các nước, họ bắt buộc phải định giá tín nhiệm qua các công ty định giá chuyên nghiệp, qua đó đánh giá cụ thể về những rủi ro có thể gặp phải là như thế nào.

Đồng tình, ông Phạm Xuân Hoè cho rằng, doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm trên thị trường hiện nay còn nhiều hạn chế, lực lượng mỏng sẽ không đủ sức đáp ứng yêu cầu khi thị trường tăng cao. “Theo tôi, cần có dòng vốn cho các doanh nghiệp này phát triển, mà quan trọng là Chính phủ nên có ngân sách hỗ trợ các công ty xếp hạng tín nhiệm phát triển ổn định, có đủ tiềm lực mạnh mẽ góp phần thúc đẩy thị trường trái phiếu tăng trưởng”, ông kiến nghị.

Về dài hạn, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng cần nâng cao chất lượng của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Do vậy, không có gì khác ngoài việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.

Ông Hiếu cho biết, Nghị quyết 02 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh được cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao, có bộ chỉ số bảo vệ nhà đầu tư, chính là chỉ số nâng cấp chất lượng quản trị doanh nghiệp. Do đó, cần thực thi mạnh mẽ Nghị quyết 02 của Chính phủ.

Thanh Hoa

Lượt xem: 66
Tác giả: Không thể phân biệt “đồng mua mắm, đồng mua tương” trong túi tiền doanh nghiệp
Tin liên quan