Kinh tế số - Đường tới tương lai

Lịch sử đã chứng minh, sau mỗi cuộc đại khủng hoảng, kinh tế - xã hội lại có những bước phát triển nhảy vọt. Dịch bệnh Covid-19 khiến cho thế giới phải đối diện với những khó khăn chưa từng có. Nhưng cũng chính “bóng tối” ấy đã buộc nền kinh tế phải thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ để nhanh chóng bước ra “ánh sáng”.

Covid-19 - cú hích chuyển đổi số

Công nghệ, chuyển đổi số không chỉ là “liều thuốc” chữa lành các vết thương mà còn là đòn bẩy để nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng.

Ông Nguyễn Hồng Lam - chủ thương hiệu ô mai Hồng Lam nhận định, chuyển đổi số như “sức mạnh mềm” giúp doanh nghiệp vượt “bão” dịch. Triển khai bán hàng trực tuyến cách đây 10 năm, nhưng trước đại dịch, thương mại điện tử chỉ chiếm 5-10% doanh số của bán lẻ tại Hồng Lam, thì đến khi đại dịch xảy ra, tỷ lệ đã được nâng lên tới 15% - 20%. Đặc biệt, công ty đã đẩy mạnh bán hàng trực tuyến xuyên biên giới với nhiều đối tác đến từ Úc, Đài Loan, Nhật Bản… Tháng cuối cùng của năm 2021, Hồng Lam sẽ có một container hàng đầu tiên xuất khẩu qua Mỹ. Việc đàm phán, ký kết hợp đồng với đối tác hoàn toàn qua môi trường mạng đã càng cho thấy sức mạnh của công nghệ trong đại dịch.

Ông Phạm Nam Long - Founder&CEO Abivin - một startup về phầm mềm quản lý vận tải cho biết, tình trạng thiếu container rỗng và những khó khăn trong lưu thông hàng hóa đã khiến nhiều doanh nghiệp nhận ra tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ vào quản lý nguồn tài nguyên, điều hành, đảm bảo lưu thông công việc. Nhờ ứng dụng AI trong quản lý và tối ưu hóa chuỗi cung ứng mà các đối tác của Abivin vẫn chủ động được tuyến đường vận chuyển, chuỗi cung ứng không bị gián đoạn trong khi vẫn đảm bảo an toàn vì hạn chế được tối đa các tiếp xúc, đáp ứng điều kiện thay đổi liên tục của địa phương. Khách hàng chỉ cần ngồi trước máy tính hoặc mở điện thoại là có thể biết xe hàng của mình đang đi đến đâu, lộ trình đúng kế hoạch không, thời gian bao lâu... Chính vì vậy, tuy ảnh hưởng của đại dịch nhưng công ty vẫn tăng trưởng gấp 2-3 lần so với năm ngoái.

Những nỗ lực của từng doanh nghiệp đã tạo thành sức mạnh tổng thể giúp nền kinh tế số nước ta có những bước tiến dài từ đại dịch.

kinh te so duong toi tuong lai

Theo báo cáo mới nhất do Google, Temasek và Bain & Co công bố, nền kinh tế số Việt Nam năm 2021 đạt khoảng 21 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2020. Dự kiến vào năm 2025, quy mô nền kinh tế số sẽ đạt 57 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm đạt 29%.

Cơ sở để hãng nghiên cứu đưa ra dự báo này là việc Việt Nam đã có thêm tám triệu người tiêu dùng kỹ thuật số mới kể từ khi đại dịch bắt đầu, tính đến nửa đầu năm 2021. 55% trong số họ đến từ các khu vực không thuộc cấp thành thị. Chưa kể, 97% người tiêu dùng mới vẫn đang sử dụng dịch vụ và 99% có ý định tiếp tục sử dụng trong tương lai. Những người đã dùng các dịch vụ kỹ thuật số trước đại dịch đã sử dụng thêm trung bình bốn dịch vụ từ khi đại dịch xảy ra và mức độ hài lòng của hầu hết người dùng với các dịch vụ này đạt 83%.

Kết quả thống kê từ Bộ Thông tin và Truyền thông cũng cho thấy, trong năm 2021, chuyển đổi số quốc gia có những bước phát triển đột phá trên cả ba trụ cột là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến đủ điều kiện cung cấp mức độ bốn tăng từ 31% lên 96%. Ước tính tỷ trọng kinh tế số trong GDP tăng từ 8,2% lên 9,6%.

Trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng, năm 2021, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 25/194 quốc gia, vùng lãnh thổ; đứng thứ bảy trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thứ bốn trong khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á về chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu do Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) xếp hạng. Số lượng thuê bao di động Việt Nam năm 2021 ước đạt 123,76 triệu thuê bao. Trong đó có 92,88 triệu thuê bao là smartphone, chiếm tỷ lệ 75%.

“Covid-19 là cú hích trăm năm cho chuyển đổi số. Chuyển đổi số đã len lỏi vào trong mọi ngõ ngách của cuộc sống, trở thành “chìa khoá” tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế trong đại dịch”, ông Nguyễn Mạnh Hùng - Bộ trưởng Bộ TT&TT nhận định. Thương mại điện tử ở Việt Nam tăng trưởng khoảng 18% trong năm 2021 với khoảng 45 triệu người đã tham gia mua sắm trực tuyến.

Một lĩnh vực “nền móng” của kinh tế số là thanh toán số cũng đã ghi nhận sự tăng trưởng thần kỳ trong đại dịch với mức tăng trưởng trung bình trên 50% mỗi năm về số lương giao dịch và 30% về giá trị giao dịch.

Tiềm năng to lớn của Việt Nam

Đại hội lần thứ XIII của Đảng vừa qua đặc biệt nhấn mạnh chủ trương chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xác định chuyển đổi số là động lực phát triển kinh tế.

Cùng với đó, các văn kiện Đại hội xác định: Đến năm 2025, kinh tế số phải đạt khoảng 20% GDP, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội đạt bình quân trên 6,5%/năm, đến năm 2030, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

Những “tham vọng” này hoàn toàn có cơ sở khi Việt Nam được đánh giá đang có nhiều cơ hội để hưởng lợi từ nền kinh tế số. Theo kết quả từ báo cáo do AlphaBeta nghiên cứu phát hành, dân số trẻ, có học thức và am hiểu công nghệ tại Việt Nam chiếm 70% công dân dưới 35 tuổi; tỷ lệ biết đọc và viết ở nhóm 15-35 tuổi trên 98% (cao hơn tỷ lệ trung bình toàn cầu là 91%) và khoảng hơn 70% dân số sử dụng điện thoại thông minh. Đồng thời, Việt Nam có nền kinh tế internet tăng trưởng nhanh thứ hai Đông Nam Á. Bên cạnh đó, nước ta đặt mục tiêu triển khai thương mại 5G vào năm 2022, thúc đẩy người dân dùng smartphone và giảm số lượng điện thoại 2G còn dưới 5%. Cùng với thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt cũng ngày càng phát triển.

“Covid-19 là cú hích trăm năm cho chuyển đổi số. Chuyển đổi số đã len lỏi vào trong mọi ngõ ngách của cuộc sống, trở thành “chìa khoá” tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế trong đại dịch”.

Những quyết sách của Chính phủ cũng cho thấy sự chủ động, tích cực nhập cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tỏ rõ quan điểm phát triển nền kinh tế nhanh, bền vững dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Việt Nam thuộc nhóm ít các nước trên thế giới sớm ban hành chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Khuôn khổ pháp lý cũng có những bước tiến nhất định để tạo ra một không gian phát triển mới cho các doanh nghiệp, tạo động lực để doanh nghiệp phát triển các dịch vụ mới dựa trên nền tảng số.

Đặc biệt, vừa qua, NHNN đã chính thức cấp phép triển khai thí điểm dịch vụ Mobile Money trên phạm vi toàn quốc, giúp mọi người dân có thể thanh toán dịch vụ, hàng hóa có giá trị nhỏ chỉ thông qua một chiếc điện thoại “cục gạch” không cần kết nối internet và cũng không cần phải có tài khoản ngân hàng. Những ưu điểm vượt trội này giúp cho Mobile Money được kỳ vọng sẽ là lực đẩy quan trọng phát triển thanh toán số ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, những nơi chi nhánh ngân hàng, internet chưa phát triển mạnh.

kinh te so duong toi tuong lai
Kinh tế số Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong đại dịch

Nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế ngày càng được cải thiện, Nhà nước đang tích cực tập trung đầu tư nguồn vốn cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, Việt Nam tiếp tục chủ động hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với 15 FTA đã được ký kết… cũng được các chuyên gia đánh giá sẽ là nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế số trong giai đoạn tới đây.

Tuy nhiên, bên cạnh những tiềm năng, nước ta phải đối mặt với một số rào cản trong khai thác lợi ích từ công nghệ số. Theo chuyên gia kinh tế PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh, cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình chuyển đổi số, tham gia vào cách mạng công nghiệp lần thứ tư của chúng ta vẫn còn hạn chế. Tốc độ, chất lượng hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Internet vạn vật, thành phố thông minh, phương tiện tự động, sản xuất thông minh…

Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia còn chậm triển khai, việc kết nối, chia sẻ các cơ sở dữ liệu của cả khu vực công và tư còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, mức độ sẵn sàng và chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp trong nước còn thấp, năng lực tiếp cận, hấp thu công nghệ mới của các doanh nghiệp còn khiêm tốn. Đa số các doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực sản xuất còn bị động trước những thay đổi do cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ vẫn còn thiếu, đặc biệt là các nhà khoa học đầu ngành. Khung pháp lý vẫn còn có độ trễ so với tình hình thực tế, dẫn đến nhiều quy định chồng chéo, khiến kinh tế số phát triển chưa đúng với tiềm năng.

Rõ ràng, để có thể biến các tiềm năng trở thành động lực tăng trưởng trong nền kinh tế số, vẫn cần sự nỗ lực rất lớn từ phía Chính phủ, các bộ, ngành và toàn xã hội để có thể đưa nền kinh tế Việt Nam cất cao đôi cánh tiến tới hùng cường, thịnh vượng.

Ông Nguyễn Xuân Thắng - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:

Thay đổi nhận thức là thách thức lớn nhất

Để chuyển đổi số thành công, đòi hỏi sự thay đổi đồng bộ các yếu tố công nghệ, thể chế và con người, trong đó con người là quan trọng nhất; đồng bộ giữa các địa phương, giữa trung ương với địa phương; giữa các lĩnh vực sản xuất kinh doanh; giữa Chính phủ, người dân và doanh nghiệp, để không tạo ra những điểm nghẽn hay sự đứt gãy, gián đoạn ở một khâu nào đó có thể ảnh hưởng đến sự vận hành của toàn hệ thống.

Đặc biệt, thay đổi nhận thức, thói quen vẫn là khó khăn và thách thức lớn nhất trong chuyển đổi số. Với Chính phủ số, lãnh đạo các cấp chính quyền phải chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang tư duy quản trị phát triển; chỉ đạo và ban hành quyết sách dựa trên những phân tích về dữ liệu, có tầm nhìn chiến lược, khả năng dự báo tình huống và dự liệu được các kịch bản để có hành động phù hợp; phải quyết đoán, vượt qua những rào cản, bỏ lại những hành trang cố hữu nặng nề, đôi khi còn là nghịch lý của sự phát triển. Chuyển đổi số không phải là một khẩu hiệu, càng không thể làm theo phong trào, nó đòi hỏi đổi mới tư duy đi kèm với quyết tâm, hành động.

Các doanh nghiệp phải là những chủ thể tiên phong đổi mới cách thức quản trị, tích hợp dữ liệu thông minh, tích cực khai thác cơ sở dữ liệu lớn, sử dụng hiệu quả các nền tảng trực tuyến để phát triển.

Phải dám thay đổi là yêu cầu cấp bách đối với những doanh nghiệp vẫn chưa biết chuyển đổi số phải bắt đầu từ đâu, cần chuẩn bị những gì và làm thế nào để thực thi hiệu quả. Trên tất cả, yếu tố con người phải giữ vai trò quyết định. Người dân cần được đặt vào trung tâm của quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số bao trùm chính là “không để ai bị bỏ lại offline”, tất cả cần được kết nối số.

Ông Lê Quang Huy - Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:

Thể chế “mở đường” cho các công nghệ mới

Khi phương thức sống của con người thay đổi, buộc pháp luật phải điều chỉnh cho phù hợp. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần chủ động hoàn thiện thể chế nắm bắt mọi cơ hội thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, hướng tới xây dựng quốc gia số. Thực tế cho thấy, rất nhiều quốc gia tuy hạn chế tiềm lực, nhưng có bước đi phù hợp, đặc biệt là trong hoàn thiện thể chế đã tạo ra bước tiến vượt bậc trong chuyển đổi số và phát triển kinh tế - xã hội.

Những thách thức của nền kinh tế số hiện nay đòi hỏi việc hoàn thiện thể chế cần có cách tiếp cận sáng tạo hơn, khác biệt trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, để vừa thúc đẩy chuyển đổi số, vừa tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa tạo ra khuôn khổ pháp lý an toàn để loại bỏ những yếu tố bất lợi cho cơ quan quản lý, người tiêu dùng, doanh nghiệp. Hoàn thiện thể chế phục vụ cho công cuộc chuyển đổi số thực chất là quá trình thay đổi tư duy lập pháp. Từ chủ yếu là điều chỉnh can thiệp sang kiểm soát có điều kiện. Để thể chế thực sự đóng vai trò mở đường cho việc áp dụng các công nghệ mới.

Ngoài ra, cần sự tiếp cận toàn diện hơn trong việc xây dựng thể chế. Nhiều vấn đề về công nghệ số không chỉ giới hạn trong một lĩnh vực, điều này đòi hỏi các cơ quan nhà nước cần có sự phối hợp, tương tác với nhau chặt chẽ và toàn diện hơn, thực tế nhiều quốc gia trên thế giới đã thiết lập cơ chế tương tác riêng giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình hoạch định chính sách về chuyển đổi số.

Để phù hợp với tính chất xuyên biên giới của những nền tảng công nghệ số, việc hoàn thiện thể chế cũng phải đi liền với việc hoàn thiện các quy định pháp luật để xử lý những việc có tính chất xuyên biên giới, điều này đòi hỏi sự kết hợp giữa các quốc gia trong quá tình xây dựng thể chế, đảm bảo nội luật hoá cũng như hài hoà pháp luật trong khu vực và các định chế hợp tác quốc tế khác.

TS. Lê Quang Minh - Viện Công nghệ thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội:

Cần bảo vệ các “công dân số” trên môi trường mạng

Vấn đề lộ lọt dữ liệu trên môi trường số không chừa một ai. Con số thống kê năm 2021 cho thấy, các mạng xã hội đều đã xảy ra lộ lọt dữ liệu với số lượng vô cùng lớn, tình trạng này còn xảy ra với cả những “ông lớn” trong lĩnh vực công nghệ.

Số lượng các cuộc tấn công liên quan đến chủ đề Covid-19 trên khách hàng ngày càng gia tăng. Đáng chú ý, theo báo cáo của SonicWWall năm 2021, doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam hiện có nguy cơ bị nhiễm mã độc cao nhất trong các nước trên thế giới. Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là do chúng ta chưa cập nhật kịp thời các phương thức tấn công mới để có giải pháp phòng ngừa.

Chính vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ cần xác định chiến lược ban hành chính sách, kế hoạch về an toàn bảo mật thông tin; tìm sự cân bằng giữa rủi ro và thành quả mong muốn, phát triển lực lượng, đội ngũ chuyên gia về an toàn thông tin, thường xuyên nghiêm túc thực hiện chính sách, kế hoạch về an toàn thông tin.

Ngoài ra, để đảm bảo an toàn thông tin trong quá trình chuyển đổi số thì các nền tảng của ngân hàng, công ty du lịch, logistics, y tế… phải có những tiêu chuẩn được kiểm định, trước khi đưa vào sử dụng, các phần mềm này cần chứng minh, thẩm định bởi những công ty, tổ chức được cấp phép trong việc đánh giá an toàn thông tin. Việt Nam cũng cần làm chủ các sản phẩm an toàn thông tin, tránh lệ thuộc vào nước ngoài, nếu không sẽ không thể giải quyết triệt để tình trạng mất an toàn thông tin hiện đại.

Về phía doanh nghiệp cũng cần xác định, việc điều hành kinh doanh tương lai phải song hành với bảo mật thông tin, bảo vệ thông tin khách hàng là trách nhiệm của doanh nghiệp. Vì thế cần đưa vấn đề bảo mật thành vấn đề cốt lõi trong xây dựng văn hoá doanh nghiệp.

TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng - Ngân hàng BIDV:

Hai trụ cột để phát triển dịch vụ tài chính số

Để dịch vụ tài chính số Việt Nam phát triển, cần có hai trụ cột là công nghệ và cơ chế chính sách. Trong khi đó, về mặt công nghệ trong lĩnh vực tài chính đã có nhiều bước tiến tích cực. Thanh toán không tiền mặt đã phát triển vượt bậc trong thời gian vừa qua, một số dịch vụ tài chính số mới nổi cũng đã xuất hiện như ngân hàng mở (Open banking) trên nền tảng API, bảo hiểm số, chứng khoán số, cho vay ngang hàng, tiền kỹ thuật số, tiền mã hoá… Các ngân hàng cũng đã nỗ lực đổi mới phương thức tương tác với khách hàng. Cho tới nay, đã có hơn 90% các tổ chức tín dụng xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Dữ liệu khách hàng đã được sử dụng để tạo ra những sản phẩm thiết kế riêng, các mô hình kinh doanh mới đã xuất hiện nhiều hơn.

Tuy nhiên, khung pháp lý về tài chính số của Việt Nam còn manh mún, chưa đồng bộ. Vấn đề đặt ra đó là, một mặt chúng ta muốn cởi mở để khoa học công nghệ phát triển, tài chính số phát triển, nhưng chúng ta cũng lo lắng về tội phạm tài chính, rủi ro, gian lận, thị trường cạnh tranh… Thực tế, cần cân bằng giữa tính ổn định của tài chính và an toàn, bảo mật cho người tiêu dùng.

Trong thời gian tới, cần sớm sửa đổi Luật Giao dịch điện tử; xây dựng khung pháp lý sandbox cho các hoạt động tài chính số, nhất là về lĩnh vực Fintech; cho vay ngang hàng, huy động vốn cộng đồng. Đồng thời, cần có quy định riêng về quản lý dữ liệu, nếu không có một quy chế thì rất khó để chia sẻ thông tin dữ liệu với nhau. Việc hoàn thành cơ sở dữ liệu ở cấp quốc gia, quy định về dịch vụ đám mây, AI trong lĩnh vực ngân hàng cần được quy định rõ. Đồng thời, có quy định, chính sách riêng để bảo vệ người tiêu dùng tài chính; Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng số, nguồn nhân lực số, an ninh mạng, nâng cao nhận thức hiểu biết của khách hàng khi sử dụng các dịch vụ tài chính số.

Quỳnh Trang

Lượt xem: 368
Tác giả: admin1
Nguồn:thoibaonganhang.vn Sao chép liên kết
Tin liên quan