Cần xem lại quy định cho phép ngân hàng làm đại lý bảo hiểm
Đại biểu Phạm Văn Thịnh (Đoàn Bắc Giang) đề nghị, để tránh xung đột lợi ích và bảo vệ người đi vay, quy định cho ngân hàng thương mại làm đại lý bảo hiểm, nhất là bảo hiểm nhân thọ, cần được cân nhắc.
Tại phiên thảo luận ở hội trường về dự án Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi chiều 10/6, đại biểu Phạm Văn Thịnh (Đoàn Bắc Giang) cho biết, liên quan đến quy định về ngân hàng được làm đại lý bảo hiểm, theo quy định hiện hành, 2 loại bảo hiểm nhân thọ phổ biến là bảo hiểm tử kỳ và bảo hiểm hỗn hợp có mức chiết khấu tối đa cho phí bảo hiểm năm đầu là 40%.
Có dư luận cho rằng, trong năm 2021, 2022 và quý I/2023, một số ngân hàng thương mại có hiện tượng gợi ý khách hàng vay vốn mua bảo hiểm nhân thọ với mức phí vào khoảng 3-4% giá trị của khoản vay, có nơi gợi ý mua thì sẽ duyệt nhanh hồ sơ vay vốn, có nơi là điều kiện để được vay vốn với mức lãi suất ưu đãi. Một số ngân hàng thương mại còn giao chỉ tiêu hợp đồng và doanh thu phí bảo hiểm cho nhân viên.
Theo ông Thịnh, ngân hàng thương mại là một định chế đặc biệt, trong mối quan hệ vay vốn với ngân hàng thì người đi vay cơ bản là yếu thế. Vì vậy, để tránh xung đột lợi ích và bảo vệ người đi vay, ông Thịnh đề nghị, quy định cho ngân hàng thương mại làm đại lý bảo hiểm cần được cân nhắc, nhất là bảo hiểm nhân thọ.
Ngoài ra, về vấn đề xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm tại Luật Các tổ chức tín dụng đại biểu Phạm Văn Thịnh cho rằng, điều 185 và 189 liên quan đến chuyển nhượng tài sản bảo đảm có hoặc không có gắn với quyền sử dụng đất như dự thảo sẽ chưa giải quyết được 2 tình huống đang xảy ra trong thực tế hiện nay.
Cụ thể, tài sản bảo đảm gắn liền với quyền sử dụng đất nhưng người bảo đảm đang nợ thuế liên quan. Hoặc sau khi tổ chức tín dụng nhận tài sản đảm bảo đó, sau một thời gian mới chuyển nhượng thì kể từ thời điểm nhận tài sản bảo đảm gắn liền với đất, nghĩa vụ tài chính về đất đai có thuộc trách nhiệm tổ chức tín dụng hay không? Việc không đưa đất vào sử dụng theo Luật Đất đai trong giai đoạn cầm giữ tài sản này có bị tính tiền phạt hay không?
Để giải quyết được tình huống này, ông Thịnh đề nghị, bên mua khoản nợ hoặc tổ chức tín dụng khi nhận tài sản bảo đảm gắn liền với quyền sử dụng đất thì không phải nhận các nghĩa vụ về thuế, phí, khoản chậm nộp liên quan đến quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân có tài sản bảo đảm tính từ thời điểm nhận tài sản trở về trước.
Đồng thời, ông Thịnh cũng đề nghị, cần quy định thêm trong thời gian tổ chức tín dụng nhận tài sản bảo đảm nhưng chưa xử lý thì có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với quyền sử dụng đất có tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật và không bị tính tiền phạt chậm đưa đất vào sử dụng nếu có.