Xây dựng chuỗi cung ứng an toàn trong bối cảnh địa chính trị mới

Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam dự báo vượt mốc 900 tỷ USD trong năm 2025, nhưng cùng với đó nhiều thách thức đặt ra trong bối cảnh địa chính trị mới đòi hỏi cần phải xây dựng chuỗi cung ứng an toàn.

Chỉ có 2,5% doanh nghiệp có khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu

Thông tin tại Hội thảo “Định hướng và giải pháp xây dựng chuỗi cung ứng an toàn, bền vững cho DN trong bối cảnh địa chính trị mới” do Cục Xúc tiến thương mại (XTTM), Bộ Công Thương tổ chức chiều ngày 23/12, bà Đặng Hồng Nhung, Cục Xuất nhập khẩu (XNK) nhận định, trong gần ba thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến dài. Kim ngạch xuất XNK đã tăng từ mức 13,4 tỷ USD năm 1995 lên 786,9 tỷ USD năm 2024, tương đương tăng gần 59 lần.

Đến năm 2025, tổng kim ngạch XNK được dự báo vượt mốc 900 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm các nền kinh tế thương mại lớn trên thế giới, Trong đó riêng xuất khẩu dự kiến đạt 470 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2024 và vượt xa con số 80 tỷ USD vào năm 2008.

Đáng chú ý, Việt Nam đã chuyển mình từ một quốc gia nhập siêu sang xuất siêu bền vững, với năm 2025 được ghi nhận là năm xuất siêu thứ 10 liên tiếp với mức 22 tỷ USD.

Số lượng mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD đã có mặt ở 35 thị trường trong đó 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất là : Hoa Kỳ, Trung Quốc (đại lục), Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông (Trung Quốc), Hà Lan, Ấn Độ, Đức, Thái Lan, Anh. (Tháng 11/2025). Số lượng mặt hàng đã tăng từ 10 mặt hàng năm 2007 lên 36 mặt hàng vào năm 2025.

Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA tiếp tục phát huy hiệu quả, giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường có tiêu chuẩn cao.

z7359136954007_089dd55117eca9d73ff4ef1668344fdf.jpg

Thành tựu xuất khẩu

Tuy nhiên, đại diện Cục XNK cũng chỉ ra một loạt thách thức. Đó là: Cơ cấu xuất khẩu vẫn phụ thuộc lớn vào khu vực FDI, trong khi DN trong nước chưa đóng vai trò tương xứng; Giá trị gia tăng (GTGT) của hàng xuất khẩu còn thấp, chuỗi giá trị nội địa chưa bền vững và mức độ đa dạng hóa thị trường, nguồn cung còn chậm.

Đặc biệt, nguy cơ bị điều tra PVTM ngày càng gia tăng, với hàng trăm vụ việc đã được khởi xướng đối với hàng xuất khẩu Việt Nam trong những năm gần đây. Đến hết tháng 6/2023, hàng xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với 231 vụ việc PVTM do các nước khởi kiện.

“Các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ cao trở thành đối tượng bị một số quốc gia tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp PVTM bao gồm kim loại và các sản phẩm kim loại (như các sản phẩm thép, các sản phẩm nhôm, các sản phẩm đồng), ngành cao su và chất dẻo, ngành hóa chất, ngành vật liệu xây dựng, ngành gỗ"- Đại diện cục XNK thông tin.

Từ nội tại trong nước, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới (IVAWE), PGS.TS Bùi Quang Tuấn đã chỉ ra một loạt thách thức. Đó là: Chỉ khoảng 2,5% DN có khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; Tỷ lệ DN thực sự làm chủ công nghệ lõi chỉ chiếm chưa đến 0,3%; chỉ 17% DN SME đang áp dụng công nghệ 4.0. Ngoài ra, tỷ lệ GTGT trong xuất khẩu của Việt Nam rất thấp, chỉ khoảng 18 - 20% trong các ngành công nghiệp trọng yếu như điện tử, dệt may.

Chuyên gia cũng dẫn khảo sát của VCCI cho thấy DN Việt Nam vẫn chưa có định hướng rõ ràng khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, với 64,7% DN chưa có sự chuẩn bị; chỉ có khoảng 15,3% DN có chiến lược tổng thể dài hạn.

Sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam cũng cho thấy còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu khi Việt Nam phải nhập 85,4% tổng nhu cầu xơ sợi trong nước. Nhiều ngành sản xuất chính như dệt may phụ thuộc đến 50% vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, da giày là 45%, sản xuất nhựa lên tới 80%.

Bên cạnh đó, còn nhiều hạn chế trong việc xây dựng chuỗi giá trị xanh, giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng, áp dụng kinh tế tuần hoàn; thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR)

Xây dựng chuỗi cung ứng an toàn

Chia sẻ tại Hội thảo, nguyên Viện trưởng IVAWE, PGS.TS Bùi Quang Tuấn nhận định xung đột Nga - Ukraine; các điểm nóng Trung Đông; biển Đông và eo biển Đài Loan (Trung Quốc), bán đảo Triều Tiên, xung đột Ấn Độ - Pakistan, Thái Lan và Campuchia... là những khu vực tiềm ẩn nguy cơ va chạm quân sự cao, ảnh hưởng đến các chuỗi cung ứng toàn cầu.

z7359548459953_43a20c78fa77ee853edbd377df37d8d7.jpg
PGS.TS Bùi Quang Tuấn, nguyên Viện trưởng IVAWE. Ảnh: Thanh Thanh

Ông cũng nhắc đến cạnh tranh Mỹ - Trung không chỉ là thương mại mà là vấn đề về công nghệ lõi và kiểm soát xuất khẩu, kiểm soát đầu tư và kiểm soát dữ liệu. Mỹ dùng thuế nhập khẩu làm công cụ đe dọa thương mại toàn cầu.

Bên cạnh đó là sự trỗi dậy của các khối mới như BRICS mở rộng, các liên minh số; xu hướng mới của dòng đầu tư và chuỗi cung ứng như friend-shoring, near-shoring, Trung Quốc + 1; dự trữ chiến lược nguyên liệu (lithium, đất hiếm, lương thực) và cấm xuất khẩu; toàn cầu hóa trùng xuống và chuyển sang trạng thái phân mảnh và phân bố không đồng đều…

z7356844950872_4d070e5205dd34dba8355a7685c0ab7d.jpg
Cục XNK đề xuất giải pháp trong bổi cảnh mới. Ảnh: Thanh Thanh

Trong bối cảnh đó chuyên gia khuyến nghị cần xây dựng chuỗi giá trị bền vững. Theo đó, toàn bộ các khâu từ nghiên cứu - thiết kế - sản xuất - logistics - marketing - phân phối - dịch vụ sau bán hàng phải được tổ chức sao cho về kinh tế tạo GTGT cao, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh. Về xã hội, tạo việc làm chất lượng, đảm bảo công bằng, bảo vệ quyền lợi người lao động và người tiêu dùng. Về môi trường, giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất.

Từ thực tế tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm công nghiệp tại Việt Nam còn rất thấp so với mục tiêu đề ra và thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, liên kết giữa các DN nội địa cũng còn yếu, chuyên gia nhấn mạnh giải pháp tăng cường liên kết giữa DN trong nước với nhau, DN trong nước và DN FDI.

Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ DN đầu tư vào công nghệ, nhân lực chất lượng cao, hình thành các DN đủ lớn để làm lead firm (Công ty dẫn đầu) để dẫn dắt các DN khác cũng phát triển…

Ngoài ra, rà soát yêu cầu về bền vững đối với các công đoạn của chuỗi giá trị bền vững với tất cả các khâu nghiên cứu - thiết kế - sản xuất - logistics - marketing - phân phối - dịch vụ sau bán hàng để tạo GTGT cao, nâng cao khả năng cạnh tranh, kiểm soát chất lượng sản phẩm; tìm giải pháp giảm chi phí logistics, ưu tiên dự án cảng/kho lạnh/đường giao thông để đưa chi phí của logistics đạt mục tiêu 15% GDP; đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng để giảm rủi ro trước biển động thuế và địa chính trị; phát triển mạnh hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và tăng cường kết nối và dịch vụ kết nối

Đồng thời nhấn mạnh việc cần tiếp tục tập trung thực hiện các đột phá chiến lược đã đưa ra gần đây, bao gồm Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 57-NQ/TW (2025) về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

"Các giải pháp đưa ra cần lấy DN làm trung tâm, tạo ra môi trường thuận lợi để DN có thể đóng góp cho nền kinh tế bứt phá, có thể tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tới"- ông Tuấn nói.

“Trong bối cảnh hiện nay, kinh tế và thương mại toàn cầu đang đứng trước những biến động sâu sắc, phức tạp và mang tính cấu trúc. Cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn ngày càng gia tăng, xung đột địa chính trị kéo dài tại một số khu vực trọng điểm, cùng với xu hướng bảo hộ thương mại, phân mảnh chuỗi cung ứng và siết chặt các tiêu chuẩn về môi trường, lao động, truy xuất nguồn gốc, đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh và lưu chuyển hàng hóa toàn cầu.

z7359561628763_7351980e64040478fa96c7d50069d8ee.jpg

Ông Bùi Quang Hưng, Phó cục trưởng Cục XTTM. Ảnh: Thanh Thanh

Đối với Việt Nam, một nền kinh tế có độ mở cao, kim ngạch XNK gấp nhiều lần GDP, các tác động từ bối cảnh địa chính trị mới càng trở nên rõ nét. DN Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức như phụ thuộc vào một số thị trường và nguồn cung nguyên liệu nhất định, rủi ro bị điều tra PVTM, gian lận xuất xứ, cũng như áp lực đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao từ các thị trường lớn về môi trường, phát thải, trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững.

Tuy nhiên, nhìn ở chiều ngược lại, xu hướng tái cấu trúc và đa dạng hóa chuỗi cung ứng toàn cầu cũng đang mở ra những cơ hội quan trọng cho Việt Nam. Nhiều tập đoàn, nhà nhập khẩu quốc tế đang tìm kiếm các đối tác mới, các điểm đến sản xuất an toàn, ổn định, có khả năng đáp ứng tiêu chuẩn và cam kết lâu dài. Đây là cơ hội để DN Việt Nam không chỉ mở rộng thị trường, mà còn từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, nâng cao hàm lượng GTGT và vị thế trong chuỗi cung ứng.