Quốc hội xem xét điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030: Hướng tới tăng trưởng 2 chữ số
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, sáng ngày 7/11, Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế và Tài chính về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.

Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 nhằm phù hợp với việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng 2 chữ số trong giai đoạn 2026-2030 và các năm tiếp theo; thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, giáo dục và đào tạo; bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân; an ninh năng lượng...; đồng thời ứng phó với các biến động nhanh, khó lường của bối cảnh quốc tế.
Năm 2030, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 8.500 đô la Mỹ
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, về quan điểm, mục tiêu phát triển, việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 bổ sung một số nội hàm trong quan điểm phát triển, nhất là chủ động kiến tạo đột phá phát triển, lấy “phát triển để duy trì ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển”, chú trọng khai thác hiệu quả không gian phát triển mới theo tinh thần của Dự thảo Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế xã hội đã được Hội nghị Trung ương thông qua. Điều chỉnh tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2021-2030 đạt từ 10% trở lên, tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 8,5%/năm, đến năm 2030 GDP bình quân đầu người đạt khoảng 8.500 đô la Mỹ, chỉ số phát triển con người HDI đạt 0,78.
Về định hướng phát triển không gian kinh tế xã hội, tập trung điều chỉnh phân vùng kinh tế xã hội theo phương án đã được cấp có thẩm quyền thông qua gồm 6 vùng, trong đó hai vùng có sự thay đổi để căn bản so với trước đây là vùng Bắc Trung Bộ gồm 5 tỉnh, thành phố (từ tỉnh Thanh Hóa đến thành phố Huế) và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm 6 tỉnh, thành phố (từ thành phố Đà Nẵng đến tỉnh Lâm Đồng).
Cùng với đó, điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế của các vùng, bổ sung các định hướng về phát triển kinh tế xã hội, kết cấu hạ tầng phù hợp với tiềm năng, lợi thế, tăng cường liên kết vùng. Mở rộng phạm vi bốn vùng động lực quốc gia sang các khu vực lân cận đã có sự phát triển về công nghiệp, đô thị và thuận lợi về giao thông, kết nối, bổ sung vùng động lực Bắc Trung Bộ bao gồm các địa bàn ven biển của ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Đáng chú ý, lần điều chỉnh này nhấn mạnh thêm định hướng phát triển các ngành công nghiệp mới nổi, các ngành dịch vụ hiện đại, đẩy mạnh hình thành, phát triển các khu thương mại tự do tại các vùng động lực quốc gia. Đồng thời bổ sung định hướng tăng cường hạ tầng kết nối các đô thị trung tâm tại các tỉnh, thành phố mới sáp nhập, gắn với chia sẻ hợp lý vai trò, chức năng; định hướng phát triển TP. Hồ Chí Minh trở thành siêu đô thị theo mô hình đa cực, đa trung tâm, vươn tầm quốc tế.
Về các ngành kinh tế quan trọng, Quy hoạch sẽ bổ sung định hướng phát triển nhanh các ngành kinh tế góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng hai chữ số. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp nền tảng chiến lược, phát triển các cụm ngành công nghiệp quy mô lớn, các mô hình khu công nghiệp hiện đại, bổ sung định hướng phát triển mạnh thương mại điện tử, du lịch, các sàn giao dịch tài sản thực, tài sản mã hóa, bổ sung định hướng phát triển nông nghiệp số, công nghệ cao, các trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp.
Về phát triển hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật, tập trung điều chỉnh, bổ sung định hướng về nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học, bổ sung mục tiêu phát triển bệnh viện chuyên sâu tại các tỉnh, thành phố, đầu tư cho y tế xã đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới. Đồng thời, bổ sung định hướng phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng các tổ hợp văn hóa, sáng tạo tầm cỡ, bổ sung một số định hướng về xây dựng hệ sinh thái khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo toàn diện, hiện đại hóa hạ tầng nghiên cứu quốc gia, phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ theo mô hình chuyên sâu.
Ngoài ra, bổ sung định hướng đẩy nhanh xây dựng các tuyến đường cao tốc, đường sắt, cảng biển, cảng hàng không, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế cao, xây dựng và nâng cấp các công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai, đáp ứng yêu cầu ứng phó các tình huống thiên tai cực đoan, triển khai chương trình phòng chống lũ lụt, sạt lở vùng trung du và miền núi.
Về giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch, Tờ trình nêu rõ bổ sung một số giải pháp như thành lập Cổng đầu tư một cửa quốc gia, tăng cường thu hút đầu tư gián tiếp, xây dựng và thực thi cơ chế, chính sách đột phá, ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng khoa học, công nghệ, tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế, nhất là các ngành mũi nhọn.
Xác định rõ cực tăng trưởng của vùng động lực Bắc Trung Bộ
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, việc bổ sung điều chỉnh các nội dung của quy hoạch tổng thể quốc gia nhằm phù hợp với bối cảnh mới sau sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030 và những năm tiếp theo. Thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội, phát triển ngành, lĩnh vực, vùng, địa phương.
Tuy nhiên, Uỷ ban Kinh tế và Tài chính nhận thấy, đối với các vùng, địa phương có sự điều chỉnh về phạm vi địa giới hành chính và đặt tên mới cần rà soát kỹ về nội dung quy hoạch và tên vùng, tỉnh để chỉnh sửa, thống nhất, tránh các kiểu khác nhau, gây khó khăn trong việc cụ thể hóa thực hiện nghị quyết.
Bên cạnh đó, để tiếp tục hoàn thiện dự thảo nghị quyết trình Quốc hội xem xét thông qua, Uỷ ban Kinh tế và Tài chính đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan lập điều chỉnh quy hoạch lưu ý một số vấn đề về: quan điểm phát triển, điều chỉnh phân vùng và định hướng phát triển vùng kinh tế xã hội,...
Trong đó, về phát triển các vùng động lực, Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng vùng động lực Bắc Trung Bộ và vùng động lực miền Trung là hai vùng động lực có vị trí cạnh nhau, có tiềm năng khai thác về nguồn lợi biển và cùng định hướng phát triển công nghiệp lọc hóa dầu, công nghiệp ô tô và phát triển cảng biển, dịch vụ cảng biển, dịch vụ logistic.
Do đó, Uỷ ban đề nghị cần đánh giá lợi thế so sánh giữa hai vùng động lực này để có điều chỉnh phù hợp với định hướng phát triển của từng vùng, tránh chồng lấn, cạnh tranh lẫn nhau, dẫn đến không đạt mục tiêu phát triển chung của cả nước. Đồng thời, đánh giá và xác định rõ cực tăng trưởng của vùng động lực Bắc Trung Bộ để định hướng, dẫn dắt sự phát triển của vùng này tương tự như các vùng động lực khác.
Về điều chỉnh định hướng phát triển không gian biển và sử dụng đất quốc gia, để đảm bảo quyền giám sát tối cao của Quốc hội theo Hiến định đối với các nguồn lực đặc biệt có tầm quan trọng quốc gia, đa số ý kiến Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị rà soát nội dung của Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch sử dụng đất quốc gia để đưa một số chỉ tiêu quan trọng vào nội dung điều chỉnh quy hoạch tổng thể quốc gia trong trường hợp phân cấp thẩm quyền quyết định đối với hai quy hoạch này.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội để hoàn thiện, trình Quốc hội xem xét thông qua, bảo đảm tính thống nhất, khả thi, đồng bộ của hệ thống pháp luật.




In bài viết