Để phát huy hơn nữa nguồn lực hiện có của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Theo Chương trình nghị sự của Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, dự kiến dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) sẽ được xem xét thông qua; trong đó có những nội dung về tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG) nhằm phát huy hơn nữa nguồn lực hiện có của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, đồng thời sử dụng được một cách tối ưu nhất công cụ BHTG.

Cơ chế hoạt động của tổ chức BHTG – Kinh nghiệm quốc tế

Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, cơ chế BHTG là bắt buộc; theo đó quy định pháp luật bắt buộc các tổ chức có huy động tiền gửi của người dân phải tham gia BHTG và nộp phí BHTG. Để vận hành cơ chế BHTG, các quốc gia thành lập tổ chức BHTG. Tên gọi của tổ chức BHTG có thể có sự khác biệt nhất định tại các quốc gia khác nhau; như: Tổng công ty BHTG (Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan...); Quỹ BHTG (Brazil, Bulgaria, Cộng hòa Séc, Lào…); Cơ quan BHTG (Croatia, Thái Lan…). Tuy nhiên, các tổ chức BHTG cơ bản đều có các đặc điểm chung: là cơ quan thực hiện mục tiêu chính sách công (không phải là doanh nghiệp bảo hiểm thông thường); hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì sự phát triển ổn định của hoạt động ngân hàng; được vận hành dựa trên cơ chế quản trị minh bạch (có Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Ban kiểm soát/kiểm toán).

Các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức BHTG gắn liền với vòng đời của tổ chức tham gia BHTG; như:

Khi tổ chức tham gia BHTG được thành lập, cơ quan quản lý nhà nước sẽ xem xét để cấp phép cho tổ chức đó hoạt động; đồng thời tổ chức BHTG cấp Chứng nhận tham gia BHTG.

Trong quá trình tổ chức tham gia BHTG hoạt động, tổ chức BHTG thu phí BHTG để hình thành, phát triển Quỹ dự phòng nghiệp vụ BHTG. Bên cạnh đó, quy định pháp luật tại nhiều quốc gia trao cho tổ chức BHTG thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Lý do được đưa ra là: i) Nếu tổ chức BHTG kiểm tra, giám sát hiệu quả, phát hiện sớm được các tổ chức yếu kém để báo cáo cơ quan quản lý nhà nước có biện pháp xử lý phù hợp sẽ giúp ngăn ngừa được nguy cơ đổ vỡ ngân hàng từ sớm; qua đó giảm nguy cơ phải sử dụng quỹ BHTG để chi trả; ii) Quy mô hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên quá lớn và phức tạp, trong khi nguồn lực của các cơ quan quản lý, giám sát (Ngân hàng Trung ương, Ủy ban giám sát…) có giới hạn; vì vậy tổ chức BHTG được sử dụng như một công cụ chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo an toàn hệ thống.

Khi phát hiện tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng yếu kém, tổ chức BHTG tại nhiều quốc gia được giao thẩm quyền tham gia vào quá trình can thiệp sớm, xử lý nhằm ngăn ngừa xảy ra tình trạng đổ vỡ; qua đó hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến người gửi tiền.

Trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, mất khả năng chi trả cho người gửi tiền, tổ chức BHTG sử dụng quỹ dự phòng nghiệp vụ để chi trả cho người gửi tiền.

Một trong những nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là hạn chế tối đa sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý ngân hàng yếu kém. Đồng thời, sau khi xảy ra tình trạng đổ vỡ ngân hàng đơn lẻ hoặc xảy ra các cuộc khủng hoảng ngân hàng, các quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của việc thành lập tổ chức BHTG, giao cho tổ chức này thẩm quyền thích hợp, tạo cơ chế tích lũy Quỹ BHTG đủ lớn để nhà nước có thêm công cụ sử dụng khi xảy ra tình trạng ngân hàng yếu kém. Vì vậy, sau mỗi cuộc khủng hoảng ngân hàng, số lượng tổ chức BHTG được thành lập mới có xu hướng tăng lên.

Tổ chức BHTG đầu tiên được thành lập trên thế giới là Tổng công ty BHTG Liên bang Mỹ, trong bối cảnh Đại suy thoái năm 1929 – 1933. Đến giai đoạn khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhiều tổ chức BHTG được thành lập như BHTGVN (1999), Quỹ bảo vệ tiền gửi Lào (1999), Tổng công ty BHTG Indonesia (2004), Tổng công ty BHTG Malaysia (2005)… Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 – 2008 càng làm nổi bật tầm quan trọng của hệ thống BHTG với việc nhiều tổ chức BHTG được thành lập như Tổng công ty BHTG Thái Lan (2008), Cơ quan Bồi hoàn tiền gửi Belarus (2008)… Đến tháng 8/2025, trên thế giới có 130 tổ chức BHTG đang hoạt động; trong đó có 107 tổ chức BHTG là thành viên của IADI.

Bên cạnh sự gia tăng về số lượng, xu hướng trên thế giới trao nhiều thẩm quyền hơn cho tổ chức BHTG. Theo Báo cáo “BHTG năm 2024 – Xu hướng toàn cầu và các vấn đề chính (IADI, 2024), tỷ lệ tổ chức tham gia BHTG được giao một số thẩm quyền bổ sung (như giám sát, kiểm tra, can thiệp sớm, xử lý) đã tăng từ 75% lên 83% trong giai đoạn 2014 – 2023. Điều này thể hiện đánh giá tích cực của các quốc gia về vai trò của tổ chức BHTG trong hệ thống ngân hàng.

Tiếp tục duy trì mô hình hoạt động của tổ chức BHTG tại Việt Nam là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận

Ở Việt Nam, tổ chức BHTG - Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 9/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ với số vốn điều lệ ban đầu là 1.000 tỷ đồng do Nhà nước cấp.

Theo quy định pháp luật hiện hành, BHTGVN là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực hiện chính sách BHTG góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Nguồn thu của BHTGVN được miễn nộp các loại thuế theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Luật BHTG năm 2012, các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN gồm: (i) Cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG; (ii) Tính và thu phí BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG; (iii) Quản lý, sử dụng và bảo toàn nguồn vốn BHTG; (iv) Theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG; (v) Tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG; (vi) Tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt (KSĐB) đối với tổ chức tham gia BHTG; (vii) Chi trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG; (viii) Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG; (ix) Tổ chức tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHTG.

Sau đó, Luật Các TCTD năm 2024 đã bổ sung một số nhiệm vụ cho BHTGVN, gồm: (i) Cho vay đặc biệt đối với ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) theo quy định pháp luật về BHTG; (ii) Mua trái phiếu dài hạn của TCTD nhận chuyển giao bắt buộc; (iii) Tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi, phương án sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của QTDND; (iv) Tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được KSĐB.

Sau gần 26 năm, hoạt động BHTG tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tổng tài sản của BHTGVN tính đến ngày 30/9/2025 là trên 139 nghìn tỷ đồng (trong đó Quỹ dự phòng nghiệp vụ là 132,8 nghìn tỷ đồng); tăng 139 lần so với số vốn điều lệ được nhà nước cấp ban đầu. Hiện nay, BHTGVN có mạng lưới hoạt động gồm Trụ sở chính và 8 chi nhánh đặt tại các khu vực kinh tế trọng điểm trên cả nước.

Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, trong thời gian vừa qua, BHTGVN đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao theo quy định pháp luật như cấp chứng nhận tham gia BHTG, thu phí, kiểm tra, giám sát, tham gia quá trình KSĐB và chi trả cho người gửi tiền. Đây là nền tảng ban đầu quan trọng để BHTGVN tiếp tục đảm nhiệm có hiệu quả các nhiệm vụ theo quy định tại Luật BHTG (sửa đổi) đang được xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV.

Để phát huy hơn nữa nguồn lực hiện có của BHTGVN, đồng thời sử dụng được một cách tối ưu nhất công cụ BHTG, dự thảo Luật BHTG (sửa đổi)quy định về tổ chức BHTG như sau:

“Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức BHTG là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, tự chủ tài chính, tự bù đắp chi phí. Cơ cấu tổ chức quản lý của tổ chức BHTG bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc.

Tổ chức BHTG có trụ sở chính; chi nhánh; văn phòng đại diện, đơn vị trực thuộc khác (nếu có).

Chính phủ quy định tổ chức, hoạt động, chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng của tổ chức BHTG phù hợp với tính chất hoạt động của tổ chức BHTG.”

Được biết, từ khi thành lập (năm 1999) cho đến nay, BHTGVN vẫn duy trì mô hình hoạt động là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Luật BHTG năm 2012 cũng đã có quy định này và dự thảo Luật BHTG (sửa đổi) tiếp tục kế thừa nội dung trên.

Theo các chuyên gia, quy định BHTGVN hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận phù hợp với bản chất mục tiêu hoạt động BHTG là bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng; phù hợp với thông lệ quốc tế về các tổ chức BHTG trên thế giới. Đồng thời, việc quy định khung về cơ chế tự chủ tài chính, tự bù đắp chi phí, cơ cấu tổ chức quản lý của BHTGVN (bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc) phù hợp với nguyên tắc xây dựng luật; theo đó những vấn đề cụ thể hơn về tổ chức, hoạt động, chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng sẽ được Chính phủ quy định.

 
Lượt xem: 0
Nguồn:thitruongtaichinhtiente.vn Sao chép liên kết