Cần có giải pháp đặc biệt để đạt mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp
Sau khi Nghị quyết 68 NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành, bình quân mỗi tháng có hơn 19.100 doanh nghiệp thành lập mới, tăng gần 48% so với mức bình quân những tháng trước đó. 9 tháng đầu năm 2025, cả nước có 230.000 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là tín hiệu tích cực và cho thấy niềm tin của người dân, cộng đồng doanh nghiệp đang được khơi dậy trở lại sau giai đoạn khó khăn kéo dài bởi đại dịch Covid-19 và những biến động toàn cầu.
Chính sách tạo thuận lợi để hộ kinh doanh thành lập doanh nghiệp.
Một trong những dư địa lớn nhất để phát triển thêm nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam là khu vực hộ và cá nhân kinh doanh. Cả nước có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh, trong đó chỉ hơn 2 triệu hộ đăng ký chính thức. Đây là lực lượng tạo ra giá trị kinh tế rất lớn nhưng phần lớn vẫn hoạt động trong khu vực phi chính thức, gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, công nghệ, thị trường và chính sách hỗ trợ. Do vậy, việc khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp là hướng đi đúng đắn, song để thành công, chính sách phải được thiết kế phù hợp với thực tiễn.
Theo TS Nguyễn Quốc Việt - chuyên gia Chính sách công (Trường đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội), một nội dung quan trọng trong quá trình hướng tới 2 triệu doanh nghiệp là chính thức hóa khu vực hộ kinh doanh - nơi đang đóng góp lớn nhưng hoạt động phần lớn trong “vùng xám” của nền kinh tế. Nghị định 70/NĐ-CP quy định, từ ngày 1/7/2025, các hộ kinh doanh có doanh thu hơn 1 tỷ đồng/năm trong một số lĩnh vực (ăn uống, khách sạn, bán lẻ, vận tải, thẩm mỹ, vui chơi giải trí...) phải sử dụng hóa đơn điện tử kết nối dữ liệu với cơ quan thuế. Theo thống kê, khoảng 37.000 hộ kinh doanh sẽ phải chuyển từ thuế khoán sang thuế kê khai và đây là bước đi nhằm thúc đẩy chính thức hóa khu vực phi chính thức.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là lực lượng “xương sống” của nền kinh tế, nhưng các chương trình hỗ trợ hiện nay còn dàn trải, hình thức. Luật Hỗ trợ DNNVV ban hành từ năm 2017 nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nguồn lực và cơ chế điều phối hiệu quả. Vì vậy, cần cải cách mạnh mẽ hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng thị trường hóa. Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ thông minh”, đặt hàng các tổ chức trung gian chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ như đào tạo, tư vấn, chuyển đổi số. Đặc biệt, chính sách hỗ trợ phải phân loại theo nhóm doanh nghiệp như: doanh nghiệp khởi nghiệp cần kỹ năng và kết nối; doanh nghiệp sản xuất cần công nghệ và tín dụng; doanh nghiệp xuất khẩu cần xúc tiến thương mại và thông tin thị trường.
Ngoài ra, để khởi nghiệp phát triển bền vững, cần bắt đầu từ giáo dục. Theo đó, cần trang bị cho học sinh, sinh viên tư duy doanh nhân, kỹ năng kinh doanh thực tiễn và tinh thần đổi mới. Các chương trình khởi nghiệp địa phương, vườn ươm ý tưởng, không gian làm việc chung, kết nối nhà đầu tư - những “bệ phóng” quan trọng để ý tưởng kinh doanh thành hiện thực.
Dưới góc độ khác, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký (Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) cho rằng, cần tạo niềm tin để doanh nghiệp không rút khỏi thị trường bởi năm 2024, có gần 198.000 doanh nghiệp rời khỏi thị trường. Điều này đặt ra câu hỏi không chỉ về việc làm sao để “tạo thêm” doanh nghiệp mà quan trọng hơn là làm sao để “giữ được” doanh nghiệp trên thương trường, giúp họ phát triển bền vững, vượt qua khó khăn, tiếp tục đóng góp cho nền kinh tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy, có rất nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong đó nổi bật là: chi phí tuân thủ pháp luật cao, quy định pháp lý thay đổi liên tục, khó tiếp cận vốn, khó thuê mặt bằng và thiếu nhân lực phù hợp. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ - nhóm chiếm tới hơn 90% tổng số doanh nghiệp - thường có sức chống chịu rất yếu, dễ bị tổn thương trước những cú sốc kinh tế hoặc thay đổi chính sách đột ngột.
“Vì vậy, chúng ta cần tổ chức nghiên cứu toàn diện, định kỳ để nắm bắt rõ các lý do doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Thay vì chỉ thống kê số lượng doanh nghiệp “đóng cửa”, cần đi sâu vào nguyên nhân gốc rễ để có chính sách ứng phó hiệu quả. Đồng thời, cần xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm và cơ chế phản hồi chính sách từ doanh nghiệp, để kịp thời điều chỉnh các quy định chưa phù hợp”, ông Tuấn nhấn mạnh.