Bài 3: Đầu tư công cần chuyển từ “nhiều” sang “đúng”

Biến nguồn lực công thành động lực cho tăng trưởng bền vững

Vai trò quan trọng dẫn dắt tăng trưởng chiều sâu

Theo TS. Nguyễn Đình Cung- nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đầu tư công đóng vai trò trung tâm trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn. Hiệu quả đầu tư công không được đo đơn thuần bằng quy mô vốn, mà bằng khả năng tạo lan tỏa, thu hút đầu tư tư nhân và nâng cao năng suất tổng hợp (TFP). Trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, cải thiện hiệu quả đầu tư công trở thành nhiệm vụ chiến lược cấp thiết.

TS. Nguyễn Đình Cung- nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.

TS. Nguyễn Đình Cung- nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.

Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả đầu tư công bao gồm tỷ lệ vốn đầu tư công trên GDP, hệ số ICOR, tỷ lệ giải ngân và mức độ lan tỏa đầu tư tư nhân. ICOR thấp phản ánh khả năng sử dụng vốn hiệu quả, trong khi ICOR cao cho thấy tình trạng dàn trải và lãng phí. “Giai đoạn 2021-2024, ICOR trung bình đạt 6,13, cao hơn mức 5,89 của giai đoạn 2016-2020, chứng tỏ hiệu quả đầu tư công chưa được cải thiện đáng kể”, TS. Nguyễn Đình Cung nêu rõ.

Bên cạnh các chỉ tiêu vĩ mô, hiệu quả đầu tư công còn thể hiện qua khả năng khai thác và sử dụng tài sản công. TS. Cung nhấn mạnh tầm quan trọng của các chỉ số như tỷ lệ sử dụng tài sản, hệ số khai thác và tỷ lệ tài sản nhàn rỗi. Nhiều công trình hạ tầng hiện chỉ vận hành dưới 50% công suất thiết kế, gây lãng phí nguồn lực lớn, làm giảm khả năng đóng góp của đầu tư công vào tăng trưởng GDP tiềm năng.

Theo Bộ Tài chính, tính đến hết ngày 30/9/2025, tổng số vốn đầu tư công được giải ngân đạt 440.402,3 tỷ đồng, tương đương khoảng 50% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao. So với cùng kỳ năm 2024, tỷ lệ giải ngân tăng 4,5%, tương ứng tăng hơn 132.500 tỷ đồng về số tuyệt đối. Tính theo kế hoạch vốn đầu năm là 825.922,3 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân hiện đạt 53,3%.

Thực trạng gần đây cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP có xu hướng giảm liên tục. Theo báo cáo, giai đoạn 2021-2024, đầu tư công chỉ đạt khoảng 5,5% GDP, thấp hơn mục tiêu đặt ra. Điều này phản ánh xu hướng Nhà nước giảm dần vai trò trong tổng vốn đầu tư xã hội, trong khi đầu tư tư nhân gia tăng mạnh, dẫn đến nguy cơ thiếu hụt nguồn lực cho các dự án hạ tầng thiết yếu và chiến lược quốc gia.

Một điểm đáng chú ý khác là sự sụt giảm tỷ trọng vốn đầu tư do trung ương quản lý, từ 47,7% năm 2015 xuống còn khoảng 35% năm 2024. Theo TS. Cung, điều này hạn chế khả năng tập trung vốn cho các dự án quy mô quốc gia và liên vùng có tính lan tỏa cao. Sự phân tán nguồn lực theo địa phương khiến các dự án chiến lược khó đạt hiệu quả tổng thể, dẫn đến tình trạng đầu tư manh mún và thiếu tính phối hợp.

Bài 3: Đầu tư công cần chuyển từ “nhiều” sang “đúng” - Ảnh 1

Tình trạng chậm giải ngân tiếp tục là “căn bệnh kinh niên” của đầu tư công Việt Nam. Đến cuối năm 2023, tỷ lệ giải ngân chỉ đạt khoảng 73%, thấp hơn nhiều so với kế hoạch đề ra. Việc chậm trễ này không chỉ gây tổn thất chi phí cơ hội, mà còn làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và kéo dài thời gian hoàn thành dự án. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ quy trình phê duyệt phức tạp và trách nhiệm thực thi chưa rõ ràng.

Có thể thấy, đầu tư công hiện chưa tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực đến khu vực tư nhân. Dữ liệu giai đoạn 2021-2024 cho thấy đầu tư công tăng nhưng không kéo theo tăng trưởng đầu tư tư nhân, thậm chí có hiện tượng “chen lấn” (crowding-out). Khi hiệu quả đầu tư công thấp, nó không chỉ làm giảm năng suất tổng hợp mà còn triệt tiêu động lực mở rộng sản xuất của khu vực tư nhân, ảnh hưởng tới cấu trúc tăng trưởng toàn nền kinh tế.

Đặc biệt, cơ cấu đầu tư công bộc lộ nhiều bất cập. Mặc dù vốn tập trung hơn vào hạ tầng giao thông và năng lượng, nhưng vẫn dành tỷ trọng đáng kể cho các lĩnh vực thương mại, lưu trú và bất động sản, những ngành vốn có khả năng tự huy động. Trong khi đó, đầu tư cho khoa học công nghệ, giáo dục và y tế lại giảm. Xu hướng này khiến đầu tư công mất đi chức năng dẫn dắt chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu.

Thiết lập cơ chế sàng lọc và thẩm định độc lập dự án

Một ví dụ rõ nét là sự phát triển dàn trải trong lĩnh vực hạ tầng cảng biển và hàng không. Nhiều địa phương có tới hai sân bay hoặc cảng nước sâu, trong khi các trung tâm vận tải lớn như Tân Sơn Nhất và Nội Bài vẫn quá tải. Chỉ 6 trong số 21 cảng hàng không do ACV quản lý có lợi nhuận. Thực tế này cho thấy công tác quy hoạch thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng tài sản công thấp và sự lãng phí nguồn lực đầu tư đáng kể.

Việt Nam cần chuyển từ “đầu tư nhiều” sang “đầu tư đúng”, đặt hiệu quả và bền vững làm trọng tâm.

Việt Nam cần chuyển từ “đầu tư nhiều” sang “đầu tư đúng”, đặt hiệu quả và bền vững làm trọng tâm.

Mặc dù số lượng dự án đầu tư công đã giảm mạnh từ hơn 22.000 dự án giai đoạn 2011-2015 xuống khoảng 5.000 dự án giai đoạn 2021-2025 nhưng hiệu quả vẫn chưa được cải thiện tương xứng. Nhiều dự án trọng điểm vẫn đội vốn, kéo dài tiến độ và phát sinh chi phí lớn. Các dự án đường sắt đô thị như Cát Linh-Hà Đông, Nhổn-Ga Hà Nội hay Bến Thành-Suối Tiên là minh chứng rõ nét cho những yếu kém trong quản trị đầu tư công.

Về nguyên nhân, TS. Cung chỉ ra rằng phạm vi đầu tư công ở Việt Nam còn quá rộng, chưa tập trung vào các lĩnh vực Nhà nước cần đảm nhận. Quy trình thủ tục phức tạp, chồng chéo giữa các cấp quản lý khiến thời gian chuẩn bị dự án kéo dài. Bên cạnh đó, chất lượng thẩm định, đánh giá chi phí, lợi ích thấp; nhiều dự án được phê duyệt theo tư duy nhiệm kỳ hoặc lợi ích cục bộ, thiếu cơ sở phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội dài hạn.

Ngoài ra, các điểm nghẽn lớn khác bao gồm công tác giải phóng mặt bằng, năng lực nhà thầu và cơ chế giám sát. việc theo dõi, đánh giá dự án hiện nay chủ yếu dựa vào báo cáo hành chính, thiếu công cụ giám sát thực chất. Quản lý tài sản công vẫn thiên về ghi chép hiện vật thay vì đánh giá giá trị kinh tế. Do đó, tiềm năng tăng trưởng thông qua cải thiện hiệu quả sử dụng tài sản công vẫn chưa được khai thác đúng mức.

Trước thực trạng đó, TS. Cung kiến nghị nhóm giải pháp trọng tâm bắt đầu từ việc thu hẹp phạm vi đầu tư công. Trước tiên, Nhà nước nên tập trung vào các lĩnh vực chiến lược như hạ tầng, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế và phát triển con người. Mở rộng đầu tư công cần đi đôi với ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường kinh doanh, nhằm thu hút khu vực tư nhân cùng tham gia đầu tư phát triển hạ tầng và dịch vụ công.

Bên cạnh đó, cần xây dựng bộ tiêu chí sàng lọc dự án, áp dụng phân tích chi phí, lợi ích làm căn cứ lựa chọn. Cơ quan quản lý vốn cần được trao quyền điều chỉnh dự án trong quá trình thực hiện, gắn liền với trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn. “Chúng ta có thể thiết lập Hội đồng thẩm định độc lập đối với các dự án nhóm A nhằm bảo đảm tính khách quan, minh bạch và nâng cao chất lượng quyết định đầu tư công”, TS. Cung đề xuất.

Ngoài ra, cần minh bạch thông tin trong quản lý đầu tư công. Các cơ quan chủ quản cần công khai dữ liệu về tiến độ, chi phí, tác động xã hội và phản hồi người dân trên cổng thông tin điện tử. Cơ chế này không chỉ tăng cường trách nhiệm giải trình mà còn mở rộng giám sát xã hội. TS. Cung khẳng định, để đầu tư công thực sự trở thành động lực phát triển, Việt Nam cần chuyển từ “đầu tư nhiều” sang “đầu tư đúng”, đặt hiệu quả và bền vững làm trọng tâm.

 

Theo các chuyên gia, nâng cao hiệu quả đầu tư công là yêu cầu tất yếu để củng cố nền tảng tăng trưởng bền vững của Việt Nam. Đầu tư công cần được định hướng theo nguyên tắc tập trung, minh bạch và hiệu quả, gắn với cải cách thể chế và kỷ luật tài khóa. Khi đó, đầu tư công sẽ thực sự trở thành động lực chiến lược cho phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong giai đoạn mới.

Lượt xem: 4
Tác giả: Thanh Hằng
Nguồn:tapchitaichinh.vn Sao chép liên kết