Cân bằng cung ứng vốn, thực hiện hoá mục tiêu tăng trưởng bền vững

Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng cao giai đoạn tới, mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào tín dụng ngân hàng đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đa dạng hoá nguồn vốn, phân bổ lại nguồn lực theo hướng cân bằng, bền vững hơn.

Mục tiêu tăng trưởng dài hạn đối mặt với nhiều thách thức lớn

Việt Nam đang theo đuổi những mục tiêu phát triển tham vọng trong trung và dài hạn. Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

z7360210690316_7fb3d9e02cf4c52598fbd09f113f05f7.jpg

Quang cảnh diễn đàn

Chia sẻ tại Diễn đàn “Thị trường Tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô”, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, để thực hiện hoá mục tiêu tăng trưởng trên, mô hình phát triển của Việt Nam trong giai đoạn tới cần dựa trên 4 trọng tâm.

Thứ nhất, tăng trưởng phải nhanh nhưng đồng thời bền vững và bao trùm, hài hòa cả 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường.

Thứ hai, nền kinh tế cần từng bước chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào vốn và lao động sang mô hình dựa nhiều hơn vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cải cách thể chế và nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).

Thứ ba, Việt Nam cần đi tắt đón đầu thông qua việc kết hợp đồng thời đầu tư, tiếp nhận – phổ biến công nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nước.

Thứ tư, việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực phải hợp lý, hiệu quả hơn so với giai đoạn trước.

Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực cũng chỉ ra, con đường hiện thực hóa các mục tiêu này đang đối mặt với nhiều thách thức lớn. Trước hết, bối cảnh quốc tế ngày càng bất lợi khi kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, rủi ro và bất định gia tăng. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn có mức độ dễ tổn thương cao do phụ thuộc lớn vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, trong khi mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp, tỷ lệ nội địa hóa hạn chế. Đặc biệt, nhu cầu huy động nguồn tài lực cho phát triển là rất lớn, song các kênh huy động vốn cũng như cách thức phân bổ và hiệu quả sử dụng nguồn lực hiện nay vẫn là bài toán nan giải.

z7360210690334_463951773a36f0944b9f1724a949ab55.jpg

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia

Những thách thức này bộc lộ rõ nét trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Theo TS. Cấn Văn Lực, dù tăng trưởng tín dụng ở mức cao, song tốc độ huy động vốn lại chậm hơn, khiến thanh khoản của hệ thống ngân hàng không thực sự dồi dào. Trong bối cảnh đó, hệ thống ngân hàng buộc phải “hy sinh” một phần để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng, làm gia tăng áp lực rủi ro. Bài toán đặt ra là cần đa dạng hóa các nguồn huy động vốn, thay vì tiếp tục đặt gánh nặng quá lớn lên khu vực ngân hàng.

Phân tích cụ thể hơn, ông Phạm Xuân Hoè, Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam chỉ ra, mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào tín dụng ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro vĩ mô. Việc mở rộng tín dụng mạnh có thể làm gia tăng nguy cơ lạm phát, rút ngắn chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, đồng thời gây áp lực lớn lên điều hành chính sách tiền tệ.

"Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tại các nền kinh tế phát triển, nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu được cung ứng qua thị trường vốn, trong khi hệ thống ngân hàng tập trung vào vốn ngắn hạn. Cấu trúc này giúp giảm rủi ro kỳ hạn và rủi ro hệ thống, đồng thời tạo nền tảng ổn định hơn cho tăng trưởng dài hạn", Phạm Xuân Hoè chia sẻ.

Đa dạng nguồn vốn, cân bằng nguồn lực theo hướng bền vững

Trên cơ sở nhận diện rõ những rủi ro và giới hạn của mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào tín dụng ngân hàng, các chuyên gia tại Diễn đàn đã đưa ra nhiều định hướng chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn nhưng bền vững hơn.

z7360210690335_9308e1ebe85f498794341c1ba1dcf4a5.jpg

TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam thẳng thắn nhìn nhận áp lực đối với hệ thống ngân hàng trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng là rất lớn. Rủi ro kỳ hạn là một trong số này, vấn đề quan trọng nằm ở việc điều hành sao cho vừa đảm bảo mục tiêu xuyên suốt là an toàn hệ thống, vừa duy trì được sự ổn định của thị trường. Những cảnh báo và khuyến nghị từ các chuyên gia, theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, đều đã và đang được các cơ quan quản lý quan tâm, nghiên cứu.

Còn theo ông Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới (VASS), để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP cao, cần tiếp tục đa dạng hóa các nguồn vốn ngoài tín dụng ngân hàng. Trong đó, việc thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường trái phiếu, giữ vai trò trọng tâm. Song song với đó, cần tập trung phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng, xếp hạng tín nhiệm nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả phân bổ vốn. Thị trường cổ phiếu cũng cần được lành mạnh hóa thông qua việc kiểm soát chặt các đòn bẩy phi chính thức quá cao, quản lý hiệu quả các hoạt động fintech chứng khoán và hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán.

Bên cạnh đó, ông Lê Xuân Sang nhấn mạnh vai trò của chính sách tín dụng có mục tiêu trong một số lĩnh vực cụ thể. Việc tăng cung và cầu nhà ở giá hợp lý cần được hỗ trợ thông qua các cơ chế ưu đãi tín dụng có ràng buộc, dựa trên kinh nghiệm quốc tế. Đồng thời, cần sớm ban hành đầy đủ các quy định liên quan đến quản lý tín dụng xanh của ngân hàng thương mại, từ chuẩn mực cấp tín dụng, đánh giá rủi ro đến các bài kiểm tra sức chịu đựng. Hệ thống dự báo và cảnh báo rủi ro tín dụng cũng cần được hoàn thiện, đặc biệt trong mối liên hệ với các kênh huy động và đầu tư khác ngoài ngân hàng.

Về định hướng đầu tư, để thúc đẩy tăng trưởng cao nhưng hạn chế hệ lụy lạm phát và kém hiệu quả, cần ưu tiên các ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh rõ rệt. Trong đó, năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và điện mặt trời, được xem là lĩnh vực tiềm năng. Các ngành năng lượng phục vụ quá trình chuyển đổi số, vốn có mức tiêu hao nguyên liệu lớn, cũng cần được quan tâm. Song song, việc thúc đẩy phát triển thương mại điện tử trong nước và xuyên biên giới có thể góp phần kích thích tăng trưởng mà ít gây áp lực lạm phát. Ngoài ra, cần nghiên cứu hiệu quả đầu tư vào các lĩnh vực mới như kinh tế tầm thấp, đồng thời đẩy mạnh phát triển hệ thống ươm tạo công nghệ để nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Ông Phạm Xuân Hoè cũng cho rằng Việt Nam cần phát triển mạnh và bền vững thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu, theo hướng cân bằng hơn với thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó, việc tăng cường phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như thuế, phí, quỹ đầu tư hay ưu tiên đấu thầu các sản phẩm đầu ra xanh, triển khai quỹ tái cấp vốn xanh và cơ chế lãi suất tái cấp vốn là những giải pháp quan trọng nhằm kích thích vốn đầu tư tư nhân, tín dụng xanh và trái phiếu xanh.

Đồng thời, ông Phạm Xuân Hoè nhấn mạnh, cần phát triển các kênh cung ứng vốn trung và dài hạn từ các định chế cho vay không nhận tiền gửi như cho thuê tài chính, cho thuê vận hành và tài chính tổng hợp, phối hợp chặt chẽ với thị trường chứng khoán để giảm áp lực cung ứng vốn trung – dài hạn cho hệ thống ngân hàng.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, dù lĩnh vực cho thuê tài chính được đánh giá là kênh cung ứng vốn quan trọng, song sự phát triển của lĩnh vực này vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào sự phục hồi và mở rộng của hoạt động sản xuất trong nền kinh tế, đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện khung khổ chính sách cho phù hợp với thực tiễn.

Đối với giải pháp nhằm mở rộng tín dụng xanh, TS. Nguyễn Quốc Hùng đề xuất nghiên cứu thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng xanh theo mô hình hợp tác công – tư, sớm vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon, đồng thời xem xét chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp không chỉ đối với doanh nghiệp triển khai dự án xanh, mà cả đối với các tổ chức tín dụng cho vay trong lĩnh vực ESG.

TS. Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh, tăng trưởng bền vững là bài toán tổng thể, liên ngành. Chỉ khi khung pháp lý được hoàn thiện, chính sách đủ rõ ràng và ổn định, các ngân hàng mới có thể yên tâm phân bổ nguồn lực, qua đó giúp tăng trưởng xanh và kinh tế xanh thực sự trở thành nền tảng cho tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong giai đoạn tới.