Thị trường vốn xanh chờ cú hích khác biệt để phát triển bền vững
Để đạt mục tiêu Net Zero 2050, Việt Nam cần huy động nguồn lực tài chính khổng lồ. Đây vừa là thách thức lớn, vừa là cơ hội vàng để thu hút dòng vốn xanh toàn cầu và củng cố vai trò chủ lực của kinh tế tư nhân trong hệ sinh thái tài chính.
Thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đang chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ 170% trong năm qua. Dù được kỳ vọng sẽ trở thành “dòng vốn mới” giúp doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững, tín dụng xanh hiện vẫn là nguồn vốn từ khoản vay xanh, giúp doanh nghiệp đầu tư vào các dự án, mua sắm máy móc, thiết bị và công nghệ mới để sản xuất sạch hơn, bảo vệ môi trường tốt hơn và quản lý tài nguyên hiệu quả.
Nhiều ngân hàng thương mại, nhất là nhóm ngân hàng nhà nước, đã chủ động tung ra các gói vốn xanh với lãi suất ưu đãi, nhắm tới những dự án tuân thủ tiêu chuẩn ESG
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, có 58 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ xanh với tổng giá trị giai đoạn 2017 - 2024, dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng bình quân trên 21%/năm, vượt xa tốc độ tăng trưởng tín dụng chung. Danh mục cho vay xanh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm 37%), nông nghiệp xanh (trên 29%). Song song đó, các tổ chức tín dụng cũng đẩy mạnh quản trị rủi ro môi trường trong cấp tín dụng.
Kết quả đến ngày 30/6/2025, dư nợ tín dụng xanh đạt trên 736 nghìn tỷ đồng, tăng 8,35% so với cuối năm 2024, chiếm tỷ lệ 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm hơn 39%) và nông nghiệp xanh (trên 26%). Dư nợ tín dụng đã được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt 4,72 triệu tỷ đồng tăng 31% so với cuối năm 2024. Trong đó dư nợ tín dụng được quản lý rủi ro về môi trường đạt trên 1,2 triệu tỷ đồng.
Từ thực tiễn triển khai, bà Nguyễn Thị Kim Phượng, Phó Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp BIDV chia sẻ, dù ngân hàng đã giải ngân gần 79 nghìn tỷ đồng cho hơn 1.900 dự án xanh, nhưng con số này mới chiếm khoảng 3,7% tổng dư nợ. Rào cản lớn nhất vẫn nằm ở chi phí tuân thủ cao và yêu cầu minh bạch dữ liệu, khiến việc thẩm định dự án phức tạp và kéo dài.
Theo nhận định của ThS. Nguyễn Minh Trí, Giảng viên Khoa Kinh tế - Quản trị, Trường Đại học Văn Hiến TP. Hồ Chí Minh, trái phiếu xanh và tín dụng xanh không còn là khái niệm xa lạ với cộng đồng doanh nghiệp. Nhiều ngân hàng thương mại, nhất là nhóm ngân hàng nhà nước, đã chủ động tung ra các gói vốn xanh với lãi suất ưu đãi, nhắm tới những dự án tuân thủ tiêu chuẩn ESG. Tuy nhiên, lợi ích về lãi suất chưa đủ hấp dẫn khi đặt cạnh chi phí phát sinh để doanh nghiệp đáp ứng điều kiện vay.
ThS. Nguyễn Minh Trí chia sẻ thêm, chi phí tuân thủ là rào cản đáng kể. Một dự án muốn được gắn nhãn “xanh” phải qua nhiều vòng kiểm chứng: xây dựng bộ tiêu chuẩn nội bộ, thực hiện báo cáo minh bạch định kỳ, thuê bên thứ ba giám sát… Đây đều là khoản đầu tư không nhỏ, triệt tiêu lợi ích kinh tế kỳ vọng. Chính vì vậy, “sân chơi” hiện vẫn thuộc về những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tài chính và chiến lược dài hạn.
Thực tế, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn với tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo hàng trăm GW điện gió ngoài khơi, điện mặt trời và cơ hội trở thành trung tâm sản xuất hydro xanh. Song đi cùng cơ hội là thách thức huy động hàng trăm tỷ USD vốn trong nhiều thập kỷ tới. nhưng nếu chậm trễ, Việt Nam dễ tụt hậu trong cuộc đua chuyển dịch xanh toàn cầu.
Điều đáng lưu tâm, khi các cơ chế quốc tế như CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU) hay CORSIA (cơ chế bù trừ và giảm phát thải hàng không toàn cầu) sẽ sớm tác động trực tiếp tới hàng xuất khẩu và ngành hàng không Việt Nam. Do đó, doanh nghiệp không chỉ cần vốn, mà còn cần “cầu nối” về chính sách, hạ tầng và hệ sinh thái để đi đường dài với tài chính xanh.
Giải pháp cú hích pháp lý
Nhờ sự nhập cuộc quyết liệt của ngân hàng và sự đồng hành của cơ quan quản lý, nhiều ngân hàng thương mại đang ưu tiên phân bổ nguồn vốn cho các dự án năng lượng tái tạo, logistics xanh, hạ tầng bền vững và bất động sản tuân thủ ESG. Đây là bước chuyển quan trọng, đưa tín dụng xanh từ khái niệm trở thành dòng vốn thực sự lan tỏa.
Một cú hích lớn cho thị trường chính là việc Chính phủ công bố “Danh mục phân loại xanh” vào tháng 7/2025. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một bộ khung pháp lý thống nhất, đóng vai trò kim chỉ nam cho cả bên vay và bên cho vay. Với danh mục này, các ngân hàng và doanh nghiệp đã có “ngôn ngữ chung” để xác định tiêu chuẩn, tránh tình trạng tùy tiện hay “tẩy xanh” gây rủi ro uy tín.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia lưu ý rằng, để khung pháp lý này thực sự phát huy hiệu quả, cần có thêm các hướng dẫn cụ thể về quy trình giải ngân, mẫu báo cáo thống nhất và cơ chế giám sát minh bạch.
Trong thời gian tới, trên cơ sở bám sát các mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và các Kế hoạch triển khai, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục tập trung thực hiện bốn giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, ngân hàng xanh; hướng dẫn các tổ chức tín dụng cấp tín dụng cho các dự án có lợi ích về môi trường, bảo vệ môi trường sau khi Danh mục phân loại xanh quốc gia được ban hành.
Hai là, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng và trình Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được Nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm khi vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG.
Ba là, tích cực đàm phán, tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức ở trong và ngoài nước để tiếp nhận các hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ kỹ thuật để triển khai các hoạt động về tài chính xanh, ngân hàng xanh, đặc biệt là nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ ngân hàng về ngân hàng xanh – tín dụng xanh, biến đổi khí hậu.
Bốn là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trong ngành ngân hàng nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết cho cán bộ ngân hàng, khách hàng về tăng trưởng xanh, sản xuất và tiêu dùng bền vững.